Cõi tâm linh trong tranh thờ cúng

Họa sĩ Đỗ Đức

Tranh Đạo giáo ở miền núi phía Bắc Việt Nam là loại tranh thờ cúng được lưu giữ bảo quản bởi các thầy Tào. Nó được sử dụng trong các lễ cúng chay (kỳ yên) hoặc cúng mặn (ma chay, cúng xúi quẩy). Vì là loại tranh phục vụ tín ngưỡng nên trước đây nó được xếp vào hàng mê tín dị đoan. Đã có thời bài trừ mê tín dị đoan, người ta đã thu gom để tiêu huỷ. Rồi những ông thầy cúng già chết, theo tục lệ, tranh được mai táng theo thầy, cũng mất đi một số lượng đáng kể.
Các dân tộc Dao, Cao Lan, Tày, Nùng đều có loại tranh thờ cúng này. Tuy vậy, trừ những nhân vật Tiên thánh chủ chốt của Đạo giáo, phần còn lại tranh cũng được thể hiện theo quan niệm của riêng mình. Ví dụ, Vua bếp của người Dao là phụ nữ, nhưng tranh Vua bếp của người Giáy lại là đàn ông với hình tượng quỷ (râu tóc đỏ). Người Cao Lan có tranh “Dẫn hương lộ” vẽ đường về trời của người chết,cùng với ý niệm đó,người Tày có tranh độ linh,người Dao có Tồm Tòong, người Sán Dìu lại có Cung nghinh thánh đế. Người Giáy cúng Xúi quẩy có bức tranh “bát quái vô danh” trên vải dài đến 5m, (rộng 0,20m) vẽ đến 32 khổ tranh nội dung kể lại cả một hành trình dẫn độ những điều xấu xa ra khỏi nhà.
Xuất xứ của tranh Đạo giáo là từ Trung Hoa. Theo “Tranh Đạo giáo ở Bắc Việt Nam” của Phan Ngọc Khuê (NXB Mỹ thuật-2001) thì tổ sư Đạo giáo là Trương Đạo Lăng cuối thời Đông Hán lập ra. Đạo giáo theo chân các nhà cai trị và sự di trú của các tộc người phương Bắc vào Việt Nam. Có thể thấy trên một số tranh cúng cũ còn sót lại, phần lạc khoản còn ghi niên hiệu “Trung Hoa dân quốc”. Đó là tranh của những họa công giỏi, bút lực điêu luyện. Nhìn nét vẽ siêu phàm ấy khiến người ta có thể cảm nhận được linh khí toả ra. Những tranh Đạo giáo ở ta hiện nay, phần nhiều là do thợ Hàng Trống xưa đồ lại, nét vẽ và màu sắc kém hẳn. Lại có những tranh các thầy cúng tự sao chép, thì còn kém hơn. Nhiều tranh chỉ tô mảng phẳng, mà không biết kỹ thuật “cản”, trông mộc mạc dân dã mà có lúc nó được ngộ nhận xêếp vào hàng “tranh dân gian miền núi”!
Hãy gạt bỏ mọi thiên kiến một thời, để nhìn nhận lại giá trị văn hoá, giá trị nghệ thuật của thể loại tranh thờ cúng. Xem bộ tranh 36 bức ở xã Cốc San, Bát Xát, Lào Cai do thầy cúng Lộc Văn Sắt, người Giáy còn đang lưu giữ, khi bày ra theo thứ tự của nghi lễ cúng thì thấy ngay được vũ trụ quan của tín ngưỡng này. Trong đó, thế giới thần linh được sắp xếp theo một trật tự cơ cấu quyền lực thống nhất, có trên có dưới, có trách nhiệm cai quản vùng miền với sự chấp pháp nghiêm minh. Mỗi một hình thức cúng bái thì bày tranh nào, ở đâu. Các thần linh cai quản nhân gian rất chặt chẽ và các hình phạt với các tội danh con người gây ra rất dữ dội. Với 10 cửa điện dưới âm phủ, chất bạo lực của hình phạt thể hiện tính răn đe cao với thế giới con người.
Nếu ở đồng bằng, bài học luân lý về đạo làm người thể hiện rất rõ ở chùa chiền thông qua tích Phật, mặt “động” (một hình thức của Thập điện Diêm Vương) và các chư Phật, thì ở miền núi, một buổi cúng cũng có thể coi là một buổi học đại cương để giáo dẫn con người hướng thiện. Những buổi cúng lễ thường người trong bản từ trẻ đến già tới rất đông, không tham gia gì vào việc hành lễ mà chỉ là để xem cúng và nghe hát. Có lẽ đó cũng là lớp học về giáo lý đầu tiên của cư dân miền núi khi chưa có nền giáo dục học đường.
Để đạt được mục đích răn đe, giáo hoá với con người, những vị thần linh cũng được các họa công tạo ra uy vũ bằng hình tượng, vừa oai nghiêm, vừa dữ dằn và những chi tiết trên các bức hoạ cũng được cân nhắc kỹ lưỡng, chắt lọc đường nét để bộc lộ cao nhất tính áp chế quan phương, khiến người ta chỉ còn biết khuất phục để hướng thiện. Đây là những tranh thể hiện vai trò của Tam thanh, của Thập điện Diêm Vương, của Tứ đại Nguyên suý (thần mưa-gió-sấm-chớp), những vị có uy quyền nhất. Tranh cúng Xúi quẩy thì lại bộc lộ thái độ khoan hoà để xua cái xấu đi bằng cách cho ăn cho uống, tạo phương tiện đi lại và đuổi ra biển xa. Tranh Vua bếp có sự vui vẻ ấm cúng gia đình với chuyện cỗ bàn , mỗi người một việc. tranh “Phân y thí thực” (chia áo, cho cơm) lại nhân ái hiền hoà, hoặc tranh “Tứ trực ông Tào” đầy sự vui vẻ thoáng đãng với không gian bao la để các thần đi lại trình tấu việc con người tới Thiên đình được hanh thông.
Ngày nay, con người khám phá thế giới đã tiến một bước dài nhưng cũng chưa thể nói là đã giải thích hết được mọi hiện tượng thiên nhiên và xã hội. Một vũ trụ quan trong tâm linh người xưa được thể hiện qua bộ tranh thờ vẫn còn là điều để chúng ta cũng nhau suy ngẫm và tìm hiểu. Đó là góc khuất luôn còn là dấu hỏi chưa thể xoá trong đời sống tinh thần mỗi người. Cho nên thể loại tranh thờ cúng trên vẫn còn nguyên giá trị văn hoá – nghệ thuật để chúng ta suy ngẫm và tiếp tục tìm hiểu, để khám phá chính mình. Có lẽ đó cũng là sự nghiêm túc cần thiết.

Nhật Tân 8.8.2006