Văn hội xưa

Đỗ Đức

Trong sách “chuyện cũ làng Nành”, ông Nguyễn Khắc Quýnh, tác giả sách chỉ cho biết: làng Nành xưa có bảy văn chỉ: một của tổng Nành, sáu của sáu thôn trong tổng. Ông cho biết: văn chỉ là nơi tế hàng năm của Văn hội. Văn hội là tập hợp của những người có học thức thành một tổ chức ở làng, ở tổng. Ngày nay những làng cổ xưa không còn văn chỉ, cái mà xưa kia là niềm kiêu hãnh của làng: Văn là văn hoá học thức, chỉ là nền, Văn chỉ là cái nền văn hoá học thức. Làng có văn chỉ là làng có văn hoá học thức.
Văn chỉ xây lộ thiên nền lát gạch, có tường rào bao quanh, giữa xây ba bệ. Bệ giữa thờ Khổng Tử, người mà Nho học tôn vinh là Vạn thế sư biểu. Bên phải thờ thập triết và tứ phối (mười bốn học trò xuất sắc của Khổng Tử), bên trái thờ các bậc khoa bảng danh nho của làng, của tổng. Trước mỗi bệ có xây bàn gạch để bát hương đèn nến…
Chủ trì Văn hội hàng tổng gọi là bỉnh văn (ở làng gọi là tư văn), là người có bằng cấp và học thức cao nhất, có uy tín và có tư cách đạo đức tốt. Tế văn chỉ hàng năm thì ông làm chủ tế. Người muốn gia nhập Văn hội phải có lời xin. Khi được Văn hội xét công nhận thì phải sửa cỗ xôi gà làm lễ tổ, gọi là lễ vọng, lúc ấy mới là thành viên chính thức.
Lễ chỉ có xôi gà hương rượu. Làng cấp cho Văn hội một sào ruộng, các thành viên thay nhau cày cấy để lấy lúa gạo sửa lễ hàng năm. Lễ gồm cỗ xôi trắng 10 cân ta (6 kg), một gà sống thiến khoẻ đẹp nuôi nhốt một năm cho thật béo.
làm gà tế cũng phải cẩn thận: không để gà bị sát da, cỏ uốn ngẩng cao, mỏ ngậm bông hồng có cánh uốn bay, chân doãi mình nở, trên lưng phủ miếng mỡ vàng. Luộc cũng phải vừa lửa, không để da bị co, rách.
Lễ văn chỉ hàng tổng (xã) làm vào đầu xuân. Ông chủ tế phải bao cho các thành viên trước hàng tháng. Lễ tế khởi vào 8 giờ sáng. Trước khi tế, chủ tế và các quan viên cùng nhau bình chọn cỗ. Cỗ đẹp nhất được đặt bệ giữa (Khổng Tử), cỗ nhì đặt bên phải (thập triết tứ phối), cỗ thứ ba đặt ở bệ thứ ba. Các cỗ dưới hạng xếp đều xung quanh. Cỗ xấu bị phạt, có khi không được dâng lễ, khi ấy chủ mâm lễ phải lo làm lễ tạ. Cỗ bị loại thì củ lễ xấu hổ lắm, sẽ mang tiếng suốt đời, và có khi phải bỏ cả Văn hội.
Văn chỉ thôn thì tế vào mùa thu, ngày Đinh, nên thường gọi là Đinh tế, làm cỗ gọi là cỗ Đinh.
Vào Tư văn (Văn hội thôn) gọi là mua Nhiêu. Chỉ những người có Nhiêu mới được đi tế ở đình, đền, miếu vào những ngày làng có việc. Khi vào được ngồi bên phải. Những suất đinh chưa có Nhiêu, nghĩa là dân bạch đinh, ngồi phía bên trái gọi là trung nam. Khi có việc nước xách thì tư văn mũ áo nghiêm chỉnh cầm cờ biểu, trung nam đóng khố bao, nước kiệu, kéo ngựa… nói chung là những việc nặng nhọc hơn…
Ngày nay văn chỉ hàng tổng và sáu văn chỉ thôn đều không còn. Ngày xưa việc học được coi trọng và phải chăng co quá ít người có điều kiện được đi học nên sự học được đề cao, là hội viên của Văn hội làng thôi cũng đã được trọng vọng. Và cũng thật khó khăn để giữ được tư cách là người của Văn hội…

Hội làng hội nước một thời là như vậy…Có nhẽ nó chặt chẽ hơn các Hội bây giờ.

1-3-2004